THƯ VIỆN TRƯỜNG TIỂU HỌC TỐT ĐỘNG - GIỚI THIỆU SÁCH THÁNG 3/2022 - Cuốn sách "Kim Đồng" của nhà văn Tô Hoài
Kim Đồng (1929 – 15 tháng 2 năm 1943) là bí danh của Nông Văn Dền, một thiếu niên người dân tộc Nùng, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Anh là người đội trưởng đầu tiên của tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Bí danh của năm đội viên đầu tiên là: Kim Đồng, Cao Sơn, Thanh Minh, Thanh Thủy, Thủy Tiên.
“Hờn căm bao lũ tham tàn phát xít
Dấn bước ra đi Kim Đồng lên chiến khu
Kim Đồng quê hương Việt Bắc xa mù
Kim Đồng thay cha rửa mối quốc thù…”
Những lời ca hào hùng ấy chắc hẳn không hề xa lạ với mỗi thế hệ trẻ Việt Nam ta. Đó là mở đầu bài hát ca ngợi liệt sĩ Kim Đồng mà nhạc sĩ Phong Nhã sáng tác vào năm 1945. Thật may mắn, qua những đồng chí, đồng đội của Kim Đồng, như Đàm Minh Viễn, Bát Ngư, Lý Thị Nì, Nông Văn Thàn…
Cuốn sách” Kim Đồng” của nhà văn Tô Hoài được NXB Kim Đồng ấn hành năm 2007, với khổ 12.5x28 cm với hình ảnh sinh động, màu sắc tươi sáng. Hai chữ “Kim Đồng” nổi bật trên trang bìa cuốn sách, không phải vì màu sắc rực rỡ mà chính bởi sự giản dị và ý nghĩa: “Kim Đồng” có nghĩa là “gang thép”. Chính giữa cuốn sách là hình ảnh chú bé Kim Đồng cầm chiếc cần câu, trên có 1 chú chim véo von ca hát. Kim Đồng một mình đi trên con đường mòn giữa núi rừng sâu thẳm và đằng sau là thác nước hùng vĩ. Nhìn vào đó bạn đọc có thể cảm nhận được nét rắn rỏi, nhanh nhẹn và ý trí kiên cường trước bom đạn kẻ thù của người thiếu niên anh dũng.
Đến với nội dung cuốn sách, ở trang sách đầu tiên, tác giả không giới thiệu nhiều về Kim Đồng mà chỉ cho bạn đọc biết tên thật của anh là Nông Văn Dền, quê ở Nà Mạ. Tác giả không kể ngay đến những chiến công, sự hi sinh anh dũng của anh mà bạn đọc sẽ được “chứng kiến” nó qua từng diễn biến câu chuyện rất tự nhiên, qua từng câu văn sinh động, lôi cuốn.
Nhà văn Tô Hoài đã dành khá nhiều trang sách để viết về cuộc sống hàng ngày của Kim Đồng. Trước khi đến với cái tên Kim Đồng ấy, người thiếu niên anh hùng của chúng ta là cậu bé Dền trong sáng, ngây thơ. Dền cũng như bao đứa trẻ khác có những hành động, lời nói rất hồn nhiên. Nhưng sống trong thời kì chiến tranh, khi mà kẻ thù tàn ác, tuổi thơ của Dền đã phải tận mắt chứng kiến cảnh bố mình và bao nhiêu người làng bị đánh đập, bị lính bắt đi phu. Rồi đến khi bố Dền đi phu “chẳng bao giờ bố Dền về nữa”, Dền đã chứng kiến sự mất mát, đau khổ của mẹ. Dền bắt đầu tập làm người lớn để giúp đỡ mẹ.
Trong một lần đi liên lạc về, Kim Đồng phát hiện bọn địch đang phục kích ngay cạnh nơi họp của Mặt trận Việt Minh. Ngay lập tức, Kim Đồng nhanh trí nghĩ cách đánh lừa để địch nổ súng về phía mình. Chính nhờ tiếng súng “báo động” ấy, các cán bộ của Mặt trận Việt Minh đã nhanh chóng thoát khỏi vòng vây nguy hiểm của địch. Riêng Kim Đồng, khi bị trúng đạn của địch, anh chạy đến khu vực gần bờ suối Lê nin thì anh dũng hy sinh.
Kim Đồng là một trong số năm đội viên đầu tiên và được bầu làm đội trưởng Đội thiếu niên cứu quốc. Anh luôn thể hiện trí thông minh, lòng dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh khi ở tuổi 14 và trở thành tấm gương sáng chói cho các thế hệ thanh, thiếu niên noi theo. Đọc truyện bạn đọc sẽ không khỏi bùi ngùi, xúc động trước những lời nói, những việc làm vẫn còn đậm nét trẻ con nhưng lại toát lên sự ngoan ngoãn, hiếu thảo rất đáng trân trọng của Dền. Để tưởng nhớ về anh có nhà thơ đã miêu tả rằng:
"Anh là anh Kim Đồng
Người anh hùng tuổi nhỏ
Đã anh dũng hy sinh
Vì quê hương đất nước
Nhưng Kim Đồng sống mãi
Nêu gương sáng muôn đời
Cho tuổi thơ Việt Nam
Luôn chăm ngoan, học tốt!"
Mời các em đón đọc cuốn sách "Kim Đồng" tại thư viện Trường tiểu học Tốt Động.
Dưới đây là trích đoạn một phần chương 1 của cuốn sách:
CHƯƠNG I
Phong trào tỉnh Cao Bằng bấy giờ là gương mẫu đầu tiên. Làng Nà Mạ nhỏ bé gần Pác Bó, đã góp phần xứng đáng cho tỉnh Cao Bằng. Làng Nà Mạ, châu Hà Quảng ngày ấy chỉ
có khoảng hai mươi nóc nhà dân tộc Nùng. Từ những hội đánh Tây trước kia, cho tới cao trào Việt Minh đánh Pháp đuổi Nhật, cả làng Nà Mạ đã tham gia. Cụ già, em bé Nà Mạ đều vào hội cứu quốc.
Nhiều hy sinh thật to lớn. Đồng chí Quí Hiệu, đồng chí Nhất Sơn bị Pháp bắt, chặt đầu, bêu ở chợ Sóc Giang. Các đồng chí Phục Quốc, Phục Hưng gia nhập đoàn quân Nam tiến, hy sinh khi đánh Nhật ở Bắc Kạn. Có nhà bốn anh em thì hai người liệt sĩ, như nhà các đồng chí Ngư Mạn, Bát Ngư.
Có nhà, hai anh em cùng hoạt động, đều hy sinh cả, như nhà Kim Đồng.
Đương ồn ồn, bỗng lặng im.
Những tiếng nháo nhác đã xa. Không ai trông thấy gì nữa. Chỉ nghe chân bước ũng oẵng trong vũng nước hai bên cỏ tranh. Người làng bị lôi đi cả rồi. Các xóm ở Nà Mạ, ngõ nào cũng tụ lại, lố nhố người, nhưng im lặng. Im lặng như gốc mít, gốc trám, gốc nghiến, gốc vối. Chỉ còn những con mắt chớp chớp lóa nước mắt.
Thế là chuyến bắt phu các làng đi làm lô cốt đồn Sóc Giang hóa ra thật rồi, thật. Không ai ngờ làng xóm chẳng được kịp ăn tết rằm tháng bảy. Cuộc bắt phu từ gà gáy. Lính cơ trên châu ập về, như cướp đến. Lính còn vây quanh làng. Sợ người trốn đi. Rồi, lính ùa lên nhà với xã đoàn, kéo từng người. Người xuống thang đành đạch như con cá giãy. Ngựa của châu đoàn ngoài đường cứ chốc chốc lại đập chân, rũ đuôi và chuông cổ coong coong như tiếng nhạc cúng ma. Đằng nào cũng buồn bã thế. Người bị lôi tay xuống thang, buông chân đi mà bụng buồn như còn nghe đoạn hát then “khảm hải” nửa đêm qua.
Lúc chuông ngựa châu đoàn réo, Dền mới thức dậy. Ngoài đường đã ồn ã lắm. Trong nhà mình vẫn lặng tờ. Ngoài đường nhộn nhạo, trong nhà im. Nhưng ngoài đường không phải tiếng ơi ới gọi nhau đi xem hội hát. Có tiếng chửi réo lên kìa. Tiếng rít, tiếng roi đập chát chát. Không xong rồi, Dền nhỏm lên.
Bố Dền đang nhóm lửa bếp giữa sàn để hơ lá gói bánh gai. Bấy giờ, cả mẹ, cả anh và Dền đã ra ngồi quanh lửa. Sương sớm buông xuống tận đầu nhà. Tháng bảy đưa cái lạnh về sớm thế này ! Mấy ngày vừa qua, mưa dầm nên không phơi lá gai được. Tết đến, nhà nào cũng làm bánh gai – trẻ con thích bánh gai, bánh gai ngọt hơn bánh nếp. Nhưng bấy giờ Dền cũng quên cả ăn bánh gai. Cái lặng lẽ quanh mình đương đầy sợ hãi.
Rồi có tiếng động chân ngoài đầu sàn, đã thấy chiếc nón chóp nhoi lên. Kìa có lính đến nhà mình. Bố Dền đứng dậy.
Bố Dền bước ra. Bếp sưởi trống một chỗ. Còn như lạnh hơn lúc nãy. Bố Dền quay lại, nói:
– Hay là mẹ Dền nấu cơm cho tôi gói đi.
Lính quát :
– Ra ngay ! Người ta đợi cả ngoài kia rồi.
Ngay đó, lính đẩy bố Dền lao đầu xuống thang. Tuy vậy, bố vẫn phải quay lại chỗ cột, bê ra hai hòn đá to đã buộc sẵn, để đấy rồi bố Dền quảy đi. Mấy lâu nay, xã đoàn đã đến bảo từng nhà: quan hai xây lô cốt trên đồn Sóc Giang, nhà nào có người ở tuổi đi phu phải sắp sẵn hai hòn đá to. Lúc đi, quảy đá lên. Không có hai tảng đá lên theo thì phạt kéo thêm hai ngày phu.
Mà cứ gì người đi phu mới phải vác đá xây lô cốt. Dền đã thấy người làng đi chợ Sóc Giang, chợ Nà Giàng, cả người đi chợ Nậm Nhũng lèo tèo xa nhất, ai cũng quảy theo một hòn đá. Không có hòn đá tảng đi chợ, không được vào mua muối của cai chợ đứng bán.
Không biết trời đất sắp thế nào mà đồn Tây, đồn châu, đồn bang tá phá hết bờ rào tre và tường đất, đắp nên lô cốt đá. Rồi đến các nhà châu đoàn, xã đoàn cũng đua đòi xây tường đá, lô cốt. Chánh tổng Thước ở Thông Nông bắt mỗi người đi chợ qua nhà phải nộp một tảng đá. Người ta nói rủa: Có việc gì mà mày phải đắp mả nhà mày kỹ thế ?
Bố Dền quảy hai hòn đá ra tới đầu ngõ. Những người trong làng phải đi phu đã đứng chen chân đấy, đương túi bụi, rối rít trong tiếng roi quất, tiếng cai cơ quát lính đếm xem đủ số phu chưa. Rồi con ngựa châu đoàn nhong nhong đi trước. Đám lính chạy sau, dồn phu quảy gánh theo, chửi om. Đoàn người bật ra ngõ. Tiếng ồn ào xa dần vào con đường lầy lội trong cỏ tranh cao lấp đầu, không nhìn thấy bọn người đi đâu nữa.
Những người đứng đầu xóm, có người òa khóc, rồi cung cúc chạy về. Không giữ được nước mắt, nhưng ai cũng cố kìm tiếng khóc. Sợ khóc thế thì sái cho người đi xa.
Mẹ và anh em Dền ra bờ suối. Chỗ suối ấy trông thấy bóng người dưới nước. Suối Pác Bó chảy về đến Nà Mạ, từng quãng trong vắt rồi trắng ngần qua hai bên những cây vối già nghiêng nửa mình, tựa vai nhau soi bóng trên mặt dòng nước phẳng như gương.
Nhưng không trông thấy bóng người. Bờ suối đằng kia, những cái chày hẫng không, chỏng lên bên cánh cối nước(1) quay vội vội. Cái cọn(2) thì thong thả, cót két, múc lên từng ố ng nước. Những cảnh hàng ngày ấy, trông đau lòng thêm. Trời Hà Quảng trong xanh, ruộng Hà Quảng đất lẫn đá bốn mùa khô xác, không giữ được một hạt nước, một hạt màu. Mưa lụt, nắng hạn, đất nghiêng đi đâu mà nghiêng mãi, lúc nào cũng chỉ thấy người tháo, người đắp giữ nước ngoài đồng. Tháng bảy rồi mà cọn nước còn kẽo kẹt suốt đêm múc từng ống vào ruộng. Hạn to rồi. Mới có tháng bảy mà những cái cánh cối đã tất tả quay suông. Như thế là chẳng còn hạt gạo dính trôn cối.